Thứ Năm, 21 tháng 10, 2010

Lễ cưới của người Êđê

Trai gái tìm hiểu nhau, quyết định đi đến thành hôn thì trước tiên phải thông qua đám hỏi. Nhà gái chuẩn bị lễ hỏi gồm một chén rượu và một vòng đồng để cúng thần, sau đó cô gái cùng ông mối đến nhà trai. Nếu ở khác buôn thì những người đi hỏi mang theo cơm nếp với ý nghĩa để đôi trai gái gắn bó với nhau như cơm nếp. Dăm adei (anh, em trai bên mẹ) cầm chiếc vòng đã được cúng thần để hỏi chàng trai, nếu chàng trai ưng thuận thì họ làm lễ trao vòng: Cô gái và chàng trai chạm tay vào chiếc vòng (đây là lời giao ước hôn thú). Từ đó coi như hai gia đình trở thành thông gia, mỗi gia đình cử ra Êmiêt awa (người đỡ đầu) của mình đại diện cho hai gia đình giúp đôi trai gái nên vợ nên chồng cũng như tham gia khuyên răn và hòa giải những bất hòa giữa hai gia đình.
Nếu trong trường hợp người con trai không đồng ý thì nhà trai làm một nghi lễ nhỏ mời nhà gái đến dự để tỏ lòng tôn trọng và duy trì sự hòa thuận với nhau. Theo quan niệm của người Êđê việc từ chối hôn lễ là từ chối hôn nhân của một dòng họ, ảnh hưởng và gây tổn thương rất lớn đến lòng tự trọng của không những một gia đình mà còn cả một dòng họ. Do đó cần thiết phải có sự thể hiện gắn bó đoàn kết của một cộng đồng dân tộc. Đây là một trong những nét đẹp văn hóa truyền thống của người Êđê.

Thách cưới (Knăm)

Hai gia đình gặp nhau bàn việc thách cưới do nhà trai đưa ra, thường là thách cưới rất cao. Đồ thách cưới gồm trâu, bò, chiêng, ché và ngày nay có thể là vàng... Nếu nhà trai và nhà gái đồng ý, họ sẽ chọn ngày đưa cô gái về sống tại nhà chồng một thời gian để thử thách. Nếu cô gái không trả nổi lễ vật thách cưới thì phải ở lại làm việc tại nhà chồng cho đến khi hết nợ mới có quyền rước chồng về nhà mình. Lúc này người con gái đó mới có quyền làm lễ gọi chồng. Trường hợp trả không hết nợ (thường là gái mồ côi) thì cô gái phải ở luôn bên nhà chồng. Đôi khi vì đồ thách cưới rất cao nên có trường hợp có con rồi mới làm lễ cưới.

Lễ gọi chồng (Iêu ung):

Khi đã đủ đồ thách cưới, nhà gái sẽ trao cho nhà trai và xin cưới, tức là làm lễ gọi chồng. Ngoài đồ thách cưới, nhà gái còn mang sang nhà trai ba lễ vật bắt buộc để trả công cho mẹ chồng :
  • 01 chén bằng đồng: Trả công ơn cho mẹ chồng đã tắm cho chồng lúc còn nhỏ bằng thau đồng.
  • 08 vòng đồng: Tượng trưng 08 lễ cúng trong chu kỳ sống của một con người trước khi lập gia đình.
  • 01 cái chăn: Trả cho mẹ chồng đã địu chồng lúc còn nhỏ
Ngoài ba lễ vật trên còn có nhiều vòng đồng để phát cho các thành viên của gia đình chồng.
Lễ rước rể:
Nhà trai tiễn con bằng một ché rượu và một con heo. Trên đường về nhà gái, chú rể được tặng nhiều vòng đồng - coi đó là lời cam kết thủy chung và lời chúc tụng hạnh phúc (thường thường, trong khi rước rể, một tốp thanh niên tinh nghịch sẽ đón đường té nước vào chú rể để thay lời chúc phúc cho đôi bạn trẻ). Trong nghi lễ, khi chủ nhà và khách đã yên vị, mọi người tiến hành lễ cúng cho mẹ chồng 01 ché rượu, 01 con heo. Sau đó là lễ cúng tổ tiên gồm 05 ché rượu và 01 con heo. Một Dăm adei lấy máu con vật hiến sinh bôi lên chân đôi vợ chồng mới cưới, chúc cho hai người 2 miếng cơm với 3 sừng rượu. Vị trưởng họ nhà gái đại diện hai bên trao vòng đồng cho đôi vợ chồng trẻ chạm tay và nhắc nhở lòng chung thủy ở mỗi người. Khách dự lần lượt đi qua mặt hai vợ chồng chúc tụng và tặng quà.

Bảo tồn nghi lễ và lễ hội của người Êđê, Mnông

Những nghi lễ, lễ hội mang đậm bản sắc dân gian của các dân tộc Tây Nguyên đang dần bị mai một, nếu chúng ta không nhanh chóng có những biện pháp tích cực và phù hợp để bảo tồn...

Lễ hội và nghi lễ- nét đẹp của bản sắc văn hóa:
Các nghi lễ và lễ hội của dân tộc Êđê và Mnông là rào chắn tốt nhất để bảo vệ bản sắc văn hóa, gìn giữ phong tục tập quán và nếp sống tốt đẹp của cộng đồng. Thực tế cho thấy, ở những nơi xa xôi hẻo lánh, nghi lễ - lễ hội được gìn giữ và thể hiện ở dạng nguyên sơ hơn ở vùng trung tâm thị trấn, thị tứ. Có những vùng vì thay đổi tập quán sản xuất, thay đổi địa điểm cư trú, nên đã bỏ dần nếp sống cổ truyền.
Hiện nay, hầu như các nghi lễ và lễ hội của dân tộc Êđê, Mnông chưa có ranh giới rõ ràng. Ở đây thực chất có lễ mà chưa có hội. Nếu các dân tộc thiểu số phía Bắc gọi lễ hội, người Việt gọi là hội, như hội Đền Hùng, hội Gióng, hội Lim... thì đối với đồng bào Êđê, Mnông gọi lễ hội là lễ, như lễ đặt tên thổi tai, lễ cúng lúa, lễ cúng bến nước, lễ mừng được mùa, lễ cúng voi ... điều này có nghĩa là tính chất phần lễ ở đây luôn được coi trọng hơn phần hội.
Các nhà nghiên cứu văn hoá dân gian ở Tây Nguyên phân các nghi lễ - lễ hội của đồng bào Êđê, Mnông theo hai hệ thống và lễ nông nghiệp và lễ vòng đời người. Lễ nông nghiệp thường được tổ chức trước và trong mùa rẫy thường là được tổ chức vào mùa mưa. Các lễ vòng đời thường được tổ chức sau mùa rẫy thường là vào mùa khô và dịp đầu xuân. Tùy theo từng lễ, có thể tổ chức theo từng gia đình riêng lẽ, rộng ra nữa là dòng họ, hoặc trong buôn làng. Tất nhiên rằng lễ nào cũng phải thể hiện đủ ba yếu tố: thời gian, địa điểm, quy mô.
Các nghi lễ - lễ hội dân gian của đồng bào Êđê, Mnông thường không mang tính tôn giáo, mà mang tính tâm linh đa thần. Hình thức của lễ thường gắn với việc cúng thần và lễ vật hiến thần. Lễ vật hiến thần nhỏ nhất là con gà, ché rượu, to hơn nữa là heo, bò, trâu cùng hàng chục ché rượu. Lễ nhỏ thường được tổ chức trong một ngày, lễ lớn từ ba đến bảy ngày. Tùy theo từng loại lễ mà thu hút cả dòng họ, cả buôn, hoặc nhiều buôn tham gia. Lễ ở đây, bên cạnh ý nghĩa nhân văn của cộng đồng thường gây tốn kém, lãng phí tiền của và thời gian của mọi người nhất là lễ bỏ mả của người Êđê Mdhur, Mnông Kuênh, lễ Tâm nghết của người Mnông Nong, lễ kết nghĩa của người Mnông Gar...
Một số lễ thường gắn với sinh hoạt văn hóa cộng đồng có tính chất hội như lễ cưới, lễ cúng sức khỏe, lễ cúng bến nước, lễ bỏ mã, lễ ăn trâu - mừng được mùa, lễ cúng nhà mới... nhưng phần hội trong các lễ này chủ yếu là nhằm phục vụ cho phần lễ được qui mô và đông vui hơn. Thí dụ lễ bỏ mả của người Êđê Mdhur, trong những ngày gia chủ tiến hành lễ bỏ mả, thì bà con trong dòng họ, trong buôn bỏ việc lên rừng, lên rẫy mà ở nhà dự lễ, mọi người vừa góp tiền của để giúp gia chủ, vừa tham gia giết trâu bò, nấu nướng, khiêng rượu, tạc tượng, dựng nêu, bày lễ cúng; vừa tham gia các sinh hoạt văn hóa cộng đồng, như đánh chiêng, thổi Rlet, Mbuôt, hát dân ca, kể sử thi, múa chim công, múa giã gạo... với mục đích làm cho lễ trở thành ngày hội của cộng đồng.

Nguy cơ mai một:
Bên cạnh một số lễ có tính tích cực, như lễ cúng sức khỏe, lễ cúng bến nước, lễ trưởng thành... còn một số lễ gắn với việc mê tín dị đoan, như lễ cúng chữa bệnh cho người ốm, lễ cúng đuổi tà ma cho gia đình có người chết dữ, lễ cúng yàng để xử phạt người nghi ma lai... Những lễ này thường dùng vật hiến sinh, như heo, trâu, bò vừa tốn kém, vừa ảnh hưởng đến sức khỏe, tiền của của mọi thành viên trong cộng đồng.

Trước đây người Êđê, Mnông chủ yếu canh tác bằng lúa rẫy và các loại cây truyền thống như bắp, đậu, khoai lang, mì... thì nay ở hầu hết đồng bào dân tộc bản địa đã chuyển sang trồng cà phê, hồ tiêu, bông vải, điều, cao su, mía... và làm nhà ở theo kiểu người Kinh, nên không còn các nghi lễ - lễ hội cúng lúa mới, cúng kho lúa, cúng bến nước, cúng sức khỏe, lễ ăn trâu mừng được mùa như trước đây. Có một số già làng ở Tây Nguyên đã nói rằng: “Gần hai mươi năm nay không được nghe một tiếng chiêng lễ hội nào, nhớ lắm, buồn lắm nhưng đành chịu thôi”.
Nhiều người lại cho biết: “chiêng ché đã bán đi gần hết rồi, bến nước không còn, thổ cẩm không ai dệt, rừng đã phá tận nguồn, mùa lúa rẫy chỉ còn thưa thớt trong một số buôn làng, nên lễ cúng hàng năm không ai để ý đến. Bây giờ người già thèm nghe một tiếng chiêng, trẻ con thèm tắm một bến nước mà không có được, thật là buồn”.
Tuy vậy, hiện nay nếu có dịp đến các buôn làng thì chúng ta vẫn thường gặp một số lễ cúng nhỏ. Đó là, lễ đặt tên cho trẻ sơ sinh, lễ hỏi, lễ kết nghĩa anh em, lễ cúng sức khỏe... được tổ chức gọn nhẹ trong từng gia đình của người Mnông Gar; lễ cúng cầu mưa, lễ bỏ mả, lễ cúng nhà mới của người Mnông Kuênh; Lễ ăn trâu- cúng bến nước của người Mnông Lào... Nhìn chung các lễ trên đều do từng gia đình tự đứng ra tổ chức nên quy mô nhỏ, hẹp và mang nặng tính chất của lễ nghi. Thậm chí có một số lễ bị bỏ quên từ lâu như lễ ăn trâu - cúng bến nước của đồng bào xã Krông Na (Buôn Đôn)... trong thời gian gần đây, nhờ sự tác động của Nhà nước (hỗ trợ về kinh phí) nên đồng bào đã cố gắng phục chế lại. Có già làng ở Buôn Đôn, sau khi tham gia tổ chức lễ ăn trâu - cúng bến nước đã tâm sự : “Nhờ Đảng, chính quyền ở địa phương đã tạo điều kiện cho buôn làng chúng tôi tổ chức lại lễ hội ăn trâu - cúng bến nước, để mọi người trong buôn có dịp sinh hoạt văn hóa, ôn lại truyền thống lễ hội của cộng đồng, nếu không chỉ vài năm nữa thôi, người già đi về với tổ tiên ông bà thì cháu con nó sẽ quên hết”. Điều đó chứng tỏ nghi lễ và lễ hội của người Êđê - Mnông đang đứng trước những thử thách nghiệt ngã và có nguy cơ mất hẳn.

Làm sao để bảo tồn?
Muốn bảo tồn và phát huy những lễ hội mang tính tích cực, gắn với đời sống tâm linh của đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, trước hết, cần có những chính sách cụ thể và kinh phí thích đáng cho việc khai thác, bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống (trong đó có nghi lễ - lễ hội) của đồng bào Êđê, Mnông. Nhà nước cần sớm ban hành Luật di sản văn hóa dân tộc, tạo điều kiện cho đồng bào có ý thức gìn giữ các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình. Trên cơ sở đó, nhanh chóng và kịp thời sưu tầm, phục hồi lại các nghi lễ - lễ hội truyền thống; chọn các lễ hội tiêu biểu của cộng đồng như lễ hội Tâm nghết (ăn trâu - mừng được mùa), lễ rước hồn lúa, lễ cúng bến nước, lễ kết nghĩa anh em... làm các lễ hội truyền thống hàng năm của buôn làng. Đương nhiên, cần tổ chức và hướng dẫn các nghi lễ - lễ hội một cách đúng đắn, lành mạnh, nhằm giúp đồng bào hướng về cộng đồng và văn hóa truyền thống của dân tộc mình. Cần phối hợp các ngành chức năng tiến hành thực hiện các đề tài khoa học về văn hóa dân gian các dân tộc Tây Nguyên, đặc biệt qua tâm nghiên cứu các đề tài nghi lễ - lễ hội, gia đình mẫu hệ, phong tục tập quán, âm nhạc, sử thi của dân tộc Êđê, Mnông.
Một việc quan trọng là phải tiến hành xuất bản lần lượt các tác phẩm văn hóa, nghệ thuật dân gian Êđê, Mnông, nhất là nghi lễ - lễ hội, phong tục tập quán, truyện cổ, luật tục, lời nói vần ... in bằng hai thứ tiếng Việt - Êđê, Việt - Mnông. Biên tập các chương trình văn nghệ dân gian, ghi âm và ghi hình để phát sóng thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong đó có việc thực hiện một số phim tài liệu về nghi lễ - lễ hội. Tiếp tục tổ chức các hoạt động văn hóa lớn, như ngày hoạt động văn hóa các dân tộc, liên hoan ca múa nhạc dân gian, liên hoan cồng chiêng - nhạc cụ dân tộc, triển lãm văn hóa dân tộc, tổ chức các câu lạc bộ sinh hoạt văn hóa dân gian ở các buôn làng.
Cần nghiên cứu và phát huy các giá trị tích cực của nghi lễ - lễ hội trong công tác xây dựng nếp sống văn hóa ở các buôn làng Êđê, Mnông, phục hồi và nâng cao một số lễ hội tiêu biểu để có thể tổ chức định kỳ hàng năm. Bên cạnh đó là việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia bảo vệ di sản văn hóa dân tộc; có chính sách, chế độ thích đáng cho các nghệ nhân tài giỏi, những cá nhân và gia đình tham gia gìn giữ di sản văn hóa dân tộc.
Cuối cùng là các lớp tập huấn nghiệp vụ sưu tầm, gìn giữ văn hóa dân tộc cho cán bộ văn hóa, huyện, xã, phường, thôn buôn. Tổ chức các lớp bồi dưỡng văn hóa truyền thống, mời các nghệ nhân tài giỏi truyền dạy cho con em dân tộc cách đánh cồng chiêng, sử dụng, chế tác nhạc cụ, tạc tượng, dệt thổ cẩm, tổ chức lễ hội... chú trọng việc bồi dưỡng các tài năng, đào tạo học sinh năng khiếu về văn hóa nghệ thuật và cán bộ quản lý văn hóa là con em các dân tộc thiểu số nói chung, con em dân tộc Êđê, Mnông nói riêng./
.

Thứ Năm, 14 tháng 10, 2010

Lễ thổi tai cho trẻ của người Êđê

Sau khi trẻ sinh được một ngày, gia đình làm lễ thổi tai cho trẻ. Tham dự gồm: Thầy cúng, bố mẹ, bà đỡ và những người thân trong nhà. Lễ cúng trước là mời thần linh ông bà về chứng giám và ban phước lành cho một sinh linh vừa ra đời. Sau là tạ ơn bà đỡ không quản vất vã đã giúp sản phụ “mẹ tròn con vuông”. Trong lễ thổi tai đừa bé được đặt tên, được chúc những điều tốt lành.
Lễ cúng tuỳ thuộc vào khả năng của tùng gia đình, thường là một con gà và một ché rượu làm lễ vật cúng Yang. Bà đỡ nhai gưng và nén thổi khẽ ào hai bên tai trẻ và cầu thần trời (Aê Diê) tiếp sinh khí cho trẻ khoẻ mạnh, thông minh vì có lỗ tai thính, nhạy để thu điều hay lẽ phải. Sau lễ cúng một con gà một cái tô hay một cái dĩa làm tặng vật cám ơn cho bà đỡ.
Kèm theo là lễ đặt tên cho trẻ. Người Êđê cho rằng trẻ sơ sinh chưa có hồn nên lúc đặt tên cũng là lúc nhậm hồn cho trẻ. Mâm cúng trong lễ này gồm có: 1 ché rượu, 1 con gà nhỏ, 1 quả cà, 1 củ gừng, 1 dùi sắt (cắm vào quả cà) và một giọt sương lớn (đọng trên lá cây). Theo quan niệm của người Êđê thì ông bà tổ tiên sau khi chết đi, được người nhà làm lễ bỏ ma sẽ hoá thân thành sương mai (qua 7 lần biến hoá) linh hồn tổ tiên sẽ nhập vào đứa bé khi làm lễ đặt tên. Vì vậy khi đứa trẻ ra đời phải uống những giọt sương mai để trong dòng máu của nó ngay những tinh hoa  vốn có của tổ tiên để lại.
Trong khi thầy cúng cầu khấn cầu chúc cho bé, bà đỡ cầm quả cà nhúng vào sương mai để vào trên môi bé và lần lượt độc tên những người thuộc dòng họ mẹ đã chết. Tới tên nào mà đứ trẻ cười hoặc liếm những giọt sương thì tên vừa được xướng lên là tên của trẻ. Nhưng nếu nó khóc là linh hồn người chết không bằng lòng và họ phải gọi lại những tên khác. Người Êđê phân biệt Y là con trai H’ là con gái.
Cũng như các dân tộc mẫu hẹ khác, người Êđê quý con gái hơn con trai, đặc biệt là con đầu khi đẻ con gái thì cả họ và cả xóm đều chúc mừng gia đình đã có người nối dõi. Người ta còn tặng cho trẻ những đồ chơi tuỳ theo giới tín của nó. Nếu là con trai thì là cung nỏ, mác, rùi… còn nếu con gái thì tặng xa quay sợi, khung dệt vải, gùi…
Để đáp lại gia chủ gọi tất cả trẻ con trong làng đến cho chúng xôi. Người Êđê rất thương trẻ nhỏ nhất là trong 5 năm đầu. Họ còn tránh gọi tên thật của chúnh mà gọi tên tục để tránh ma tà làm hại. Ngoài 5 tuổi trẻ coi như thoát khỏi đe doạ của thần ác, lúc đó mới được dùng tên thật và dạy bảo cặn kẽ.

Người Êđê

Đồng phục trẻ em Êđê

nhà dài Êđê
Người Ê Đê tộc danh tự gọi là Đêgar hay Anăk Ea Ðê, Ra Ðê (hay Rhađê), ÊÐê êgar, Ðê. Trước năm 1975, tại miền nam Việt Nam người ÊĐê được gọi là Rađê. Đối với người Êđê họ tự gọi họ là ĐÊGAR hay ĐÊGA trong cụm từ Anak Đêgar (Con cái của Trời - Yang Aê Diê). Ước tính hiện nay có khoảng 330.348 người Ê Đê cư trú tập trung ở tỉnh Dak Lak phía nam của tỉnh Gia Lai miền tây của hai tỉnh Khánh Hoà và Phú Yên của Việt Nam. Tại một số quốc gia khác, như Campuchia, Hoa Kỳ, Canada và các nước Bắc Âu cũng có một ít người ÊĐê sinh sống, song chưa có số liệu chính thức.
Dân số
Dân tộc ÊĐê bao gồm khoảng 330.348 người, là dân tộc có nguồn gốc từ nhóm tộc người MaLay từ các hải đảo Thái Bình Dương đã có mặt lâu đời ở Đông Dương; truyền thống dân tộc vẫn mang đậm nét mẫu hệ thể hiện đậm nét dấu vết hải đảo của nhóm tộc người nói tiếng MaLay. Các nhóm địa phương bao gồm: Adham, Bih, Blô, Dong Kay, Dong Mak, Ening, Arul, Hwing, Mdhur, Ktul, Kpă, Krung, Dliê, Hruê, Kah, Kdrao, Ktlê, Kpan...Nhưng không có sự khác biết lớn giữa các nhóm địa phương.

 Đặc điểm kinh tế

Người Ê Đê làm rẫy là chính, riêng nhóm Bíh làm ruộng nước theo lối cổ sơ, dùng trâu dẫm đất thay việc cày, cuốc đất. Ngoài trồng trọt còn chăn nuôi, săn bắn, hái lượm, đánh cá, đan lát, dệt vải. Trên nương rẫy, ngoài cây chính là lúa còn có ngô, khoai, bầu, thuốc lá, , hành, ớt, bông.
Đặc điểm làm rẫy của người Ê Đê là chế độ luân khoảnh, tức là bên cạnh những khu đất đang canh tác còn có những khu đất để hoang để phục hồi sự mầu mỡ. Ngày nay người Êđê gắn mình với sản xuất nông sản cây công nghiệp: cà phê, cao su, hồ tiêu, ca cao...
Nghề trồng trọt ở đây có nuôi trâu, , voi. Người dân ở đây còn tự làm ra đựơc đồ đan lát, bát đồng, đồ gỗ, đồ trang sức, đồ gốm.
 Hôn nhân gia đình

Trong gia đình người ÊĐê, chủ nhàphụ nữ, theo chế độ mẫu hệ, con cái mang họ mẹ, con trai không được hưởng thừa kế. Đàn ông cư trú trong nhà vợ. Nếu vợ chết và bên nhà vợ không còn ai thay thế theo tục nối dây thì người chồng phải về với chị em gái mình. Khi chết, được đưa về chôn cất bên người thân của gia đình mẹ đẻ.

 Văn hóa

Người ÊĐê có kho tàng văn học truyền miệng phong phú: thần thoại, cổ tích, ca dao, tục ngữ, đặc biệt là các Khan (trường ca, sử thi) nổi tiếng với Khan Đam San, Khan Đam Kteh M'lan... Người ÊĐê yêu ca hát, thích tấu nhạc và thường rất có năng khiếu về lĩnh vực này. Nhạc cụ có cồng chiêng, trống, sáo, khèn, Gôc, Kni, đàn, Đing Năm, Đinh buốt là các loại nhạc cụ phổ biến của người Êđê và được nhiều người yêu thích.

Nhà cửa

Nhà sàn của người Ê Đê

Nhà người Ê Đê thuộc loại hình nhà dài sàn thấp, thường dài từ 15 đến hơn 100 m tùy theo gia đình nhiều người hay ít người. Nhà Ê Đê có những đặc trưng riêng không giống nhà của các cư dân khác ở Tây Nguyên. Là nhà của gia đình lớn theo chế độ mẫu hệ. Bộ khung kết cấu đơn giản. Cái được coi là đặt trưng của nhà ÊĐê là: hình thức của cầu thang, cột sàn và cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt. Đặc biệt là ở hai phần. Nửa đằng cửa chính gọi là Gah là nơi tiếp khách, sinh hoạt chung của cả nhà dài, bếp chủ, ghế khách, ghế chủ, ghế dài (Kpan) (tới 20 m), chiếng ché... nửa còn lại gọi là Ôk là bếp đặt chỗ nấu ăn chung và là chỗ ở của các đôi vợ chồng, chia đôi theo chiều dọc, phần về bên trái được coi là "trên" chia thành nhiều gian nhỏ. Phần về bên phải là hàng lang để đi lại, về phía cuối là nơi đặt bếp...

Mỗi đầu nhà có một sân sàn. Sân sàn ở phía cửa chính được gọi là sân khách. Muốn vào nhà phải qua sân sàn. Nhà càng khá giả thì sân khách càng rộng, khang trang.

Trang phục

 

Có đầy đủ các thành phần, chủng loại trang phục và phong cách thẩm mỹ khá tiêu biểu cho các dân tộc khu vực Tây Nguyên. Y phục cổ truyền của người Êđê là màu đen, có điểm những hoa văn sặc sỡ. Đàn bà mặc áo, quấn váy (m'iêng). Đàn ông đóng khố (Kpin), mặc áo. Người ÊĐê ưa dùng các đồ trang sức bằng bạc, đồng, hạt cườm. Trước kia, tục cà răng qui định mọi người đều cắt cụt 6 chiếc răng cửa hàm trên, nhưng lớp trẻ ngày nay không cà răng nữa.

 Trang phục nam

Nam để tóc ngắn quấn khăn màu đen nhiều vòng trên đầu. Y phục truyền thống gồm áo và khố.

Áo có hai loại cơ bản:

  • Loại áo dài trùm mông: Đây là loại áo khá tiêu biểu cho người ÊĐê qua trang phục nam, có tay áo dài, thân áo cũng dài trùm mông, có xẻ tả và khoét cổ chui đầu. Trên nền chàm của thân và ống tay áo ở ngực, hai bên bả vai, cửa tay, các đường viền cổ, nơi xẻ tà gấu áo được trang trí và viền vải đỏ, trắng. Đặc biệt là khu giữa ngực áo có mảng sọc ngang trong bố cục hình chữ nhật tạo vẻ đẹp, khỏe.
  • Loại áo dài quá gối: Đây là loại áo dài quá ngối, có khoét cổ, ống tay bình thường không trang trí như loại áo dài trùm mông nói trên,...
  • Khố: Khố có nhiều loại và được phân biệt ở sự ngắn dài có trang trí hoa văn như thế nào. Đẹp nhất là các loại ktêh, drai, đrêch, piêk, còn các loại bong và bal là loại khố thường. Áo thường ngày ít có hoa văn, bên cạnh các loại áo trên còn có loại áo cộc tay đến khủy, hoặc không tay. Áo có giá trị nhất là loại áo Ktêh của những người quyền quý có dải hoa văn "đại bàng giang cánh", ở dọc hai bên nách, gấu áo phía sau lưng có đính hạt cườm. Nam giới cũng mang hoa tai và vòng cổ.

 Trang phục nữ

Phụ nữ ÊĐê để tóc dài buộc ra sau gáy. Họ mang áo váy trong trang phục thường nhật. Xưa họ để tóc theo kiểu búi tó và đội nón duôn bai. Họ mang đồ trang sức bằng bạc hoặc đồng. Vòng tay thường đeo thành bộ kép nghe tiếng va chạm của chúng vào nhau họ có thể nhận ra người quen, thân.

  • Áo: Áo phụ nữ là loại áo ngắn dài tay, khoét cổ (loại cổ thấp hình thuyền) mặc kiểu chui đầu. Thân áo dài đến mông khi mặc cho ra ngoài váy. Trên nền áo màu chàm thẫm các bộ phận được trang trí là: cổ áo lan sang hai bên bả vai xuống giữa cánh tay, cửa tay áo, gấu áo. Đó là các đường viền kết hợp với các dải hoa văn nhỏ bằng sợi màu đỏ, trắng, vàng. Cái khác của trang phục áo nữ ÊĐê khác Giarai về phong cách trang trí là không có đường ở giữa thân áo. Đếch là tên gọi mảng hoa văn chính ở gấu áo. Ngoài ra phụ nữ còn có áo lót cộc tay (áo yếm).
  • Váy: Đi cùng với áo của phụ nữ Êđê là chiếc váy mở (tấm vải rộng làm váy) quấn quanh thân. Cũng trên nền chàm, váy được gia công trang trí các sọc nằm ngang ở mép trên, mép dưới và giữa thân bằng chỉ các màu tương tự như áo. Đồ án trang trí tập trung hơn ở mép trên và dưới thân váy. Có thể đây cũng là phong cách hơi khác với váy của dân tộc Giarai. Váy có nhiều loại phân biệt ở các dải hoa văn gia công nhiều hay ít. Váy loại tốt là m'iêng đếch, rồi đến m'iêng đrai, m'iêng piêk. Loại bình thường mặc đi làm rẫy là bong. Hiện nay nữ thanh niên thường mặc váy kín.

Tôn giáo

Phần lớn người Ê Đê theo đạo Tin Lànhđạo Thiên chúa. Một số ít theo Phật giáo tại các vùng đô thị. Họ thường đọc kinh cầu nguyện tại các nhà riêng của mục sư, hiện tại các nhà thờ Tin lành vẫn chưa nhiều. Những người theo Công giáo Rôma thì thường đến các nhà nhờ tại địa phương vào ngày chủ nhật. Số còn lại vẫn theo nét tín ngưỡng của cổ truyền, thờ cúng các thần hộ thân cho mình.

Ngôn ngữ

Tiếng nói

Tiếng nói của người Ê Đê thuộc nhóm ngôn ngữ Mã Lai-Polynesia (ngữ hệ Nam Ðảo). Tiếng Êđê là một ngôn ngữ có quan hệ gần gũi với Tiếng Gia rai, Chăm, Malaysia, Indonêsia, Philippin. Tiếng Êđê ngày nay phát triển một âm tiết đơn lập; Đây là kết quả của sự ảnh hưởng của tiếng Mon-Khmer.

Chữ viết

So với các dân tộc ít người khác tại Việt Nam, người Ê Đê là sắc dân có chữ viết theo bảng chữ cái La tinh khá sớm, người Ê Đê có chữ viết từ thập niên 1920. Các nhà truyền giáo Tin Lành đã phối hợp với các chuyên viên ngôn ngữ học tại Viện Ngôn ngữ Summer đặt chữ viết cho người Ê Đê để dịch Kinh Thánh cho dân tộc này. Năm 1971, các chuyên viên này phối hợp với Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa phát hành sách dạy tiếng ÊĐê. Năm 1979, sách dạy ngữ vựng ÊĐê được xuất bản tại Hoa Kỳ. Kinh Thánh Tân Ước song ngữ ÊĐê-Việt phát hành năm 2001Năm 2006, Nhà xuất bản Tôn giáo của chính phủ Việt Nam, với sự hỗ trợ của United Bible Societies, đã phát hành 20 ngàn cuốn Kinh Thánh Tân Ước song ngữ Ê Đê-Việt tại Việt Nam. Đây là cuốn sách có số lượng phát hành nhiều nhất trong tiếng ÊĐê từ trước đến nay.